CÔNG TÁC DÂN SỐ - MỘT NỘI DUNG LỚN TẠI HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6 (KHÓA XVII)
Cùng với
nội dung về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, công tác
dân số trong tình hình mới cũng là một nội dung lớn được xem xét và cho ý kiến
tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) lần này.
Vừa
qua, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số
trong tình hình mới. Nghị quyết xác định: Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến
lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Từ
kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển
Nghị quyết số 21-NQ/TW chỉ đạo tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân
số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú
trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng
dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.
Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hoà giữa quyền và nghĩa vụ
của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay
đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng
các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân.
Trung ương Đảng cho rằng, đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát
triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh
thủ sự hỗ trợ của quốc tế bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.
Các mục tiêu về quy mô
dân số, mức sinh, tuổi thọ... đến năm 2030
Nghị quyết số 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng xác định một số mục
tiêu công tác dân số đến năm 2030:
Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người.
Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỷ lệ
trẻ em dưới 15 tuổi đạt 22%; tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt 11%; tỷ số phụ
thuộc chung đạt 49%.
Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn
đạt 90%. Tuổi thọ bình quân khoảng 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh
đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý
sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở
chăm sóc tập trung.
Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5
cm. Chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực
Đông Nam Á.
Hình ảnh: Hội nghị Trung ương 6, khoá XII đã thông qua
Nghị quyết về công tác dân số trong tình hình mới, trong đó chuyển trọng tâm
công tác dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Nguồn: TTXVN
Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo đối với công tác dân số
Nghị quyết số 21 nêu rõ, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu công tác
dân số trong tình hình mới, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân
số. Thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân,
tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội về tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách
từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy
mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số trong mối quan hệ với phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số thành một
nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ, chính quyền các
cấp. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, của từng ngành, từng địa phương.
Phát huy tối đa lợi thế dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số.
Tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và của cả cộng đồng trong công tác dân số.
Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan, đoàn
thể trong thực hiện các mục tiêu, giải pháp; đặc biệt là trong thực hiện các
phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác dân số, thực hiện nếp sống
văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, nâng cao sức khỏe và đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân.
Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc
thực hiện chủ trương chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2 con, chú
trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn
xã hội.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm
quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt. Tập trung vận
động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những
nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp.
Rà soát quy định xử lý vi
phạm trong công tác dân số
Nghị quyết số 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo tiếp tục hoàn
thiện chính sách, pháp luật về dân số gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc. Rà
soát các quy định về xử lý vi phạm trong công tác dân số; đồng thời đề cao tính
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, xây
dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành dân
số, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm.
Rà soát, bổ sung các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới
tính thai nhi. Ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng khoa học - công nghệ để lựa
chọn giới tính thai nhi. Đẩy mạnh công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ
nữ.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và phát huy người
cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội;
xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và
người lao động cao tuổi.
Rà soát, nâng cao chất lượng quy hoạch các đô thị, khu công nghiệp, khu
chế xuất, chủ động chuẩn bị các điều kiện để dân cư được phân bổ tương ứng, phù
hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của từng vùng và
trong chiến lược tổng thể xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ
Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo trong thời gian tới cần tiếp tục
củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Phát triển mạng lưới cung cấp
các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh
sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước hôn nhân. Tăng cường kết nối, hợp tác
với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài công lập. Đổi mới phương thức cung cấp,
đưa dịch vụ tới tận người sử dụng; thúc đẩy cung cấp dịch vụ qua mạng.
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hướng đẩy
mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trường thân thiện, hòa nhập giữa các nhóm đối
tượng và với xã hội. Phát triển mạnh hệ thống chuyên ngành lão khoa trong các
cơ sở y tế. Khuyến khích mạnh mẽ phát triển các cơ sở chăm sóc người cao tuổi;
cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, văn hóa, giải
trí của người cao tuổi.
Ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà nước, đồng thời huy động nguồn lực xã hội
phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản bảo đảm các nhóm dân số
đặc thù như trẻ em, người khuyết tật, người bị di chứng chiến tranh, người cao
tuổi, đồng bào dân tộc ít người, người di cư… đều thực sự bình đẳng về cơ hội
tham gia, thụ hưởng thành quả phát triển.
Đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, nhất là các vấn đề mới,
trọng tâm về cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số và lồng ghép yếu tố dân số vào
kế hoạch hóa phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực. Tăng cường hợp tác giữa
các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, phát triển mạng lưới nghiên
cứu về dân số và phát triển.
Bảo
đảm nguồn lực cho công tác dân số
Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số, công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa thể thao... nhằm nâng
cao chất lượng dân số, đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là các đối tượng
chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo.
Đẩy mạnh xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở, sản xuất, phân
phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số theo hướng tinh
gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng,
chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất. Có
chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác
viên ở thôn, bản, tổ dân phố.
Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng cũng yêu cầu việc đẩy mạnh
cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý,
cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người dân. Chủ động, tích cực hội nhập,
tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số. Tích cực tham gia các tổ
chức, diễn đàn đa phương, song phương về dân số và phát triển. Tranh thủ sự
đồng thuận, hỗ trợ về tài chính, tri thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của các
nước, các tổ chức quốc tế. Tập trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững của Liên hợp quốc về dân số./.
St._Phòng Dân số